Đối diện với những khó khăn do dịch Covid-19, một số doanh nghiệp nỗ lực tìm cách tự mình hoặc phối hợp với đối tác “giải cứu” hợp đồng, đồng cam cộng khổ để giảm thiểu thiệt hại cho các bên, xa hơn là để giữ uy tín đặng còn làm ăn lâu dài. Ngược lại, có người chọn “cửa” thuận tiện hơn nhiều – sử dụng ưu thế của mình để dừng thực hiện hợp đồng, viện dẫn sự kiện bất khả kháng làm cơ sở miễn trách nhiệm khi vi phạm.
Dịch bệnh khiến viện dẫn sự kiện bất khả kháng trở thành “trend”.
Dịch Covid-19 có được chấp nhận là “điều kiện bất khả kháng” để miễn trừ trách nhiệm tuân thủ nghĩa vụ theo hợp đồng đã ký không lại là chuyện khác. Điều này phụ thuộc vào quan điểm của cơ quan xét xử khi xảy ra tranh chấp trong từng trường hợp cụ thể; câu chữ trong hợp đồng và nhận định, đánh giá của mỗi cá nhân người cầm cân nảy mực.
Khi đó, sự tùy tiện suy diễn rằng những khó khăn do dịch bệnh gây ra là cơ sở chối bỏ nghĩa vụ đã xác lập một cách tự nguyện đôi khi trở thành con dao hai lưỡi, khiến cho bên vi phạm có thể phải chịu thiệt hại nhiều hơn so với nỗ lực còn nước còn tát hoặc tiếp cận sự việc theo hướng “mềm” hơn để tìm sự đồng cảm, chia sẻ của đối tác, thậm chí của cả… quan tòa khi tranh chấp chẳng may xảy ra.
Pháp luật không “dễ tính” với tình trạng bất khả kháng.
Khoản 1 điều 156 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS) định nghĩa: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Theo quy định này, một sự kiện được coi là bất khả kháng phải hội đủ ba yếu tố:
(i) Sự kiện đó phải khách quan;
(ii) Phải là sự việc xảy ra mà không thể lường trước được;
(iii) Phải không thể khắc phục được dù đã tìm mọi cách để khắc phục.
Có thể thấy, luật chỉ đưa ra nguyên tắc xác định thế nào là sự kiện bất khả kháng. Còn chi tiết hơn thì các bên phải lập luận, chứng minh bằng thực tế diễn ra và việc đánh giá chấp nhận hay không là thuộc quyền của người xét xử khi xem xét từng trường hợp cụ thể.
Tuy vậy, thông qua ngôn ngữ được sử dụng trong định nghĩa trên, có thể thấy pháp luật đòi hỏi tính tuyệt đối của tất cả các dữ kiện đưa ra để có thể kết luận một sự kiện đã xảy ra là bất khả kháng.
Bên cạnh ba yếu tố mang tính chất định nghĩa được đề cập ở trên, một điều kiện để áp dụng quy định về sự kiện bất khả kháng thường bị bỏ qua là sự việc xảy ra đó phải có mối quan hệ nhân quả với hành vi vi phạm hợp đồng. Khoản 2 điều 351 BLDS quy định rằng, bên vi phạm hợp đồng có thể được miễn trách nhiệm nếu bên đó vi phạm nghĩa vụ “do” sự kiện bất khả kháng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Theo đó, có thể hiểu rằng không phải tất cả các vi phạm hợp đồng trong quá trình xảy ra sự kiện bất khả kháng đều được miễn trách nhiệm, mà chỉ vi phạm nào xảy ra có nguyên nhân trực tiếp từ sự kiện bất khả kháng thì mới được xem xét không bị truy cứu mà thôi.
Dù vậy, ngay cả khi đã hội đủ các yếu tố để được miễn trách nhiệm thì không phải mọi mức độ vi phạm đều có thể được chấp nhận. Quan điểm chung của nhà làm luật là không khuyến khích việc chấm dứt hay hủy bỏ hợp đồng đã ký, trừ khi có cơ sở cho thấy mục đích khi giao kết hợp đồng không thể đạt được nếu tiếp tục thực hiện cam kết. Thay vào đó, phương án được đưa ra là cho bên vi phạm thêm thời gian hợp lý để khắc phục hậu quả.
Cụ thể, Điều 296 Luật Thương mại 2005 quy định, trừ trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có thời hạn cố định về giao hàng hoặc hoàn thành dịch vụ, “trong trường hợp bất khả kháng, các bên có thể thỏa thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; nếu các bên không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc phục hậu quả”.
Ở một cách tiếp cận khác, khoản 2 điều 143 Luật Xây dựng 2014 quy định sự kiện bất khả kháng là trường hợp có thể được xem xét điều chỉnh hợp đồng (không phải là hủy bỏ hay chấm dứt hợp đồng).
Khó khăn do dịch Covid-19 không đương nhiên là sự kiện bất khả kháng.
Nếu đối chiếu với những quy định được đề cập ở trên, tự thân dịch Covid 19 nói chung, hay các biện pháp giãn cách xã hội nói riêng, không đương nhiên trở thành sự kiện bất khả kháng. Ít nhất là tính bất ngờ, tính không lường trước được của đại dịch đã mất từ khá lâu.
Khi ký kết hay trong quá trình thực hiện hợp đồng trong các năm qua, các doanh nghiệp không thể không lường trước được “ngọn lửa F0” có thể bùng lên bất cứ lúc nào và các biện pháp giãn cách xã hội khắc nghiệt nhất có thể được áp dụng bất cứ khi nào. Dù không hề mong muốn, nhưng rõ ràng chúng ta đã sẵn sàng tâm lý khi dịch bệnh bùng phát và tự thân chúng ta đã cần phải có những phương án để đối phó với các “kịch bản” khác nhau khi dịch bệnh diễn biến theo các chiều hướng tương ứng.
Do vậy, lẽ đương nhiên là các bên trước khi ký hợp đồng phải cân nhắc kỹ lưỡng yếu tố đại dịch và, khi vi phạm hợp đồng, không thể chỉ đơn giản viện dẫn Covid-19 là được miễn trách nhiệm, trừ khi có xuất hiện những yếu tố khác, cụ thể là một số tình huống hay hệ quả liên quan tới Covid-19 mang đầy đủ ba yếu tố của một sự kiện bất khả kháng.
- Hơn nhau ở sự thiện chí -
------------
Theo: Phạm Đăng Khoa - Đăng tải trên Saigontimes.