Theo quy định tại Điều 72 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 về Người bào chữa, thì:
- Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.
- Người bào chữa có thể là:
a) Luật sư;
b) Người đại diện của người bị buộc tội;
c) Bào chữa viên nhân dân;
d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.
Căn cứ Điều 76 Bộ luật Tố Tụng hình sự 2015 về Chỉ định người bào chữa thì
Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ:
- Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;
- Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.
Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong tố tụng hình sự là quy định mang tính nhân đạo của pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Theo đó, trong một số trường hợp đặc thù, do tính chất và hậu quả của tội phạm, hoặc do hạn chế về năng lực nhận thức, năng lực hành vi, dù bị can, bị cáo không mời người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải chỉ định người bào chữa để đảm bảo quyền lợi cho họ. Quyền bào chữa là cần thiết để người bị buộc tội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nhằm đảm bảo việc xét xử khách quan, công minh, giảm oan sai người vô tội trong xét xử.
Về nguyên tắc, người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, luật quy định sự tham gia của người bào chữa vào trong vụ án không phụ thuộc vào ý chí của bị can, bị cáo. Đó là các trường hợp mà những người bị buộc tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật sư hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cử người bào chữa cho họ theo quy định tại Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự.
Những trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa nhưng cơ quan tiến hành tố tụng không chỉ định người bào chữa hoặc có chỉ định người bào chữa nhưng người bào chữa không tham dự các buổi hỏi cung, các hoạt động điều tra…Thì những tài liệu này có được coi là chứng cứ để giải quyết vụ án không?
- Căn cứ theo quy định tại Điều 76 BLTTHS 2015: Không chỉ định người bào chữa hoặc người bào chữa không tham dự các buổi hỏi cung, các hoạt động điều tra là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng quy định tại điểm o Khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015.
- Theo quy định tại Điều 16, Khoản 2 Điều 60, Khoản 1 Điều 73, Khoản 1 Điều 183 BLTTHS 2015. Việc hỏi cung bị can mà không có người bào chữa tham gia là vi phạm quyền được bào chữa của bị can.
- Quy định tại Mục 5 VB 45/C16/2007: Đối với trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa nhưng không có, là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, dẫn đến Biên bản hỏi cung sẽ không có giá trị.
- Căn cứ tại Nghị quyết 04/2004: Trường hợp không chỉ định người bào chữa hoặc người bào chữa không tham gia các hoặc động tố tụng là Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, Trừ trường hợp bị can, bị cáo từ chối.
Nhưng giai đoạn sau đó vẫn phải chỉ định. Tiếp tục từ chối, lập biên bản đưa vào hồ sơ vụ án.
--------------------------------------------------------------------------
Trên đây là bài viết liên quan đến vấn đề Những trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa trong vụ án Hình sự. Nếu có bất kỳ thắc mắc, cần hỗ trợ pháp lý. Vui lòng liên hệ. Công ty Luật TNHH MTV Thế Nguyễn và Cộng sự qua hotline: 0944.471.083 để được TƯ VẤN LUẬT chi tiết.